Cập nhật ngày: 04/01/2011, 08:09 GMT+7.

Chùa Sắc Tứ Thạch Sơn là một trong những danh thắng của Phật giáo Quảng Ngãi trước đây. Nơi đây đã đào tạo được nhiều vị Tăng tài góp phần vào sự phát triển của Phật giáo Quảng Ngãi. Ngày nay, Sắc tứ Thạch Sơn không còn nữa nhưng những đóng góp của ngôi chùa lịch sử này vẫn còn vang vọng. Qua bài nghiên cứu của tác giả Lê Vinh Bổn, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn vai trò của chùa Thạch Sơn đối với lịch sử Phật giáo Quảng Ngãi và dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh. Đồng thời, tác giả cũng gởi gắm nỗi niềm mong một ngày nào đó không xa, Sắc tứ Thạch Sơn sẽ được trùng hưng. Đây cũng là tâm nguyện chung của tất cả chúng ta.

 Tỳ Kheo Thích Như Tịnh ( Trú Trì chùa Viên Giác, Hội An, Quảng Nam )

CHÙA SẮC TỨ THẠCH SƠN

 

                                        Lê Vinh Bổn

 

    Chùa tọa lạc trên đỉnh bằng núi Phú Thọ thuộc quần thể của núi Bàn Cờ, thuộc xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Tiền thân của Sắc tứ Thạch Sơn tự là chùa Bình Man. Theo lý lịch di tích  trong “ Dự Án Nghiên Cứu Trường Lũy Quảng Ngãi” của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại Hà Nội, phối hợp với Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Khảo Cổ Học Việt Nam tại cuộc hội nghị lần thứ 3 năm 2010, đối chiếu với nội dung bia ký chùa Bình Man thì ngôi chùa này do ông Nguyễn Công Tấn nguyên là quan Án sát tỉnh Thái Nguyên vâng mệnh vua Tự Đức (1863) lãnh chức Tiễu Phủ Sứ vùng núi của các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú để bình Man. Đến năm Tự Đức thứ 19 – Bính Dần (1866) ông Nguyễn Công Tấn chủ trương xây dựng ngôi chùa này trên nền đồn Thiên Xuân (*) đã hoang phế (đồn Thiên Xuân do Tả Quân Lê Văn Duyệt thiết lập năm 1819) thuộc thôn Trường Lệ, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay. Sau khi xây dựng chùa được 3 năm (1869),ông Nguyễn Công Tấn soạn dựng bia:” Bình Man tự ký”.  Xin được trích một đoạn trong bia ký mà chúng tôi đã nhờ  nhà Hán học Võ Văn Sổ: Phó giám đốc trung tâm NC & THGP – Hội khoa học lịch sử Tp HCM phiên âm, dịch nghĩa như sau:
Phiên âm:
” Mục kim tứ thông hữu lộ, trú trác hữu đồn, thần kỳ hữu miếu, giao dịch hữu trường, hạt dân chi tiều, thải giả chí thử nhi chỉ hàng man chi giao dịch, Giả diệc chí thử nhi hoàn. Thị tắc tích vi, tê, tượng chi sở, nhi kim vi yên hỏa chi hương, tích vi đạo tặc chi tẩu , nhi kim vi xa mã chi cù, phù tứ ngũ thập niên xú loại tung hoành chi vực, chí tư nhi thủy hiển ninh kỷ thiên bá tải hóa công tạo thiết chi kỳ, chi tư nhi thủy hiển bất khả bất vi, thử giang sơn hỷ dã nhi dư cửu lai khể cổ nhơn chi chí, bất khả bất nhơn nhi tín thành chi nhỉ. Ư thị mưu chư nhứt nhị đồng chí cưu công thủ tài tức vu Liêm Khê chi bắc ngạn, phế bảo chi di cơ nhi đống vũ chi số nguyệt nhi thành, Thiên chi viết Bình Man tự thử phái dư chi hữu lạc ư thiền dã
Cái dục biểu biên cương chi thắng trí biên sự, chi thô tựu nhi hựu tương sử thính từ bi bất sát chi phạn Âm nhi tiêu hoang hốt vô thường chi Man thái   ,thử hoặc nhứt cơ hội dã…..”
 
Dịch nghĩa:
…..”
Trước mắt đường sá thông suốt 4 phương, đồn lũy vững vàng, Thần, Phật có miếu thờ, buôn bán có chợ búa, người người mang vật phẩm đến trao đổi. Người Man  quy phục cùng giao dịch cũng ở nơi đây rồi trở về. Ngày xưa đây là nơi của tê giác, voi rừng ngự trị mà nay đã thấy khói bếp tỏa bay, xưa là nơi hoang vắng, trộm cướp nay là đường sá lưu thông ngựa, xe xuôi ngược. Qua bốn năm chục năm từ khu vực bọn xấu tung hoành, nay đã yên lành. Thật là một kỳ tích mà hóa công đã ban tặngđược rạng rỡ như hôm nay. Ta không thể không làm điều gì đó để mừng cho non sông mà người xưa đã đặt trọn niền tin.
Bởi thế nên bàn bạc cùng bạn đồng chí đồng tâm  mua gỗ tốt, thuê thợ giỏi để dựng lên chùa Bình Man ở bờ bắc Liêm Khê, trên nền đồn cũ đã hoang phế, trong vài tháng đã hoàn thành là thỏa mãn tâm nguyện với đạo Thiền vậy.
Nguyện vọng chung là muốn biên cương đất nước được bền vững tuy còn nhiều nhược điểm, khó khăn; nhưng đem chuyện Từ Bi không giết chóc theo thuyết nhà Phật để phút chốc thay đổi những thói tục vô thường thì đây cũng là cơ hội vậy…..


Năm Kỷ Tỵ- Hoàng triều Tự Đức-1869
Người soạn: Lễ bộ Thượng Thư Nguyễn Công Tấn tự là Đồng Vân

 

       Ngôi chùa Bình Man trên địa phận thôn Trường Lệ, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành tồn tại đến năm Bính Ngọ – Thành Thái thứ 18 (1906) thì quan Cần Chánh điện đại học sĩ Trí Chánh Thạch Trì Nguyễn Thân kiến trúc và thỉnh cầu đệ tứ Tổ chùa Sắc tứ Thiên Ấn là Hòa thượng Giác Tánh đến khai sơn, Ngài Tăng cang chùa Sắc Tứ Thiên Mụ, Huế làm chứng minh để xây dựng chùa Thạch Sơn trên núi Phú Thọ thuộc xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa rồi rước tượng Phật từ chùa Bình Man về thờ, phục dựng bia ”Bình Man tự ký” và cũng khắc dựng một bia ”Thạch Sơn Tự ký” tại sân chùa . Hiện nay hai bia ký vẫn còn trơ gang cùng tuế nguyệt!

Tôi xin trích một đoạn trong “Bia Ký Chùa Thạch Sơn” – cũng do nhà Hán học Võ Văn Sổ phiên âm dịch nghĩa như sau:

Phiên âm:

Dư thiếu thời túc hữu kỳ chí, trưởng nhi thệ sỹ thích thời sự chi đa gian chánh bĩnh nhung trù nhựt bất dã cấp kỷ kinh hàn thử nhi vân khám quang cảnh bán lãnh Thiền đăng, kiêm dỹ tư tự mật nhĩ Tòng Lâm, tỳ liên Man kiếu, tự cải huyện vi đồn chi hậu, cửu kinh hoang phế, vị năng nhi tập chi, thâm nhi trắc chi.
Kim dã thiên nhiêu dật thú tòng cúc di nhàn, lịch tương danh khu khuyết  hữu Phú Thọ sơn Thạch động thiên thành vưu vi kỳ tuyệt. Phong đầu ngật lập thuỷ diện oanh hồi khâm Trà Giang nhi đái Vệ Thuỷ, bắc Qui Sơn nhi Nam Phụng Lãnh, Cổ Luỹ Cận Lâm hồ giang chữ, Lý Sơn giao trấn hồ hải môn, nhựt tắc khách đĩnh vãng lai, yên ba phiêu miễu, dạ tắc ngư đăng ẩn hiện, tinh tú sâm si giải  thắng thanh kỳ phất hạ đàn thuật, nhiên túng quan vũ trụ chi đại phủ sát phẩm loại chi phiền tuân vi ngô châu thập cảnh trung chi tối thắng giã dã, toại mạng cấu tạo danh viết Thạch Sơn tự, phụng nghinh Bình Man tự Phật tượng hiệp tự yên.
Thừa tiên chí dã diệc phiêu thắng tích nhi ký nhàn tình dã ư thị nộ du hạ nhựt đào dưỡng tánh thiên tương sử nhĩ bửu toạ chi minh (mất 1 chữ) kiên tâm đốn Thích mục Kim Liên chi diệu thể, tục lự tiềm khư, nhơn nhi thâm bồi thiện căn, trùng viên phước quả, thứ hồ pháp thiên địa chi động tĩnh vi thiên địa chi hoàn nhơn sơ phi đạo tập cổ nhơn nhi ư cổ nhơn ngụ ý xử ngẫu vẫn hiệp nhỉ.

Dịch nghĩa:

Ta lúc thiếu thời mang nhiều hoài bão, khi trưởng thành ra làm quan, gặp lúc thời cuộc nhiễu nhương, bận lo chính sự binh nhung, không rảnh rỗi để xem xét giềng mối nắng mưa, leo lắt đèn Thiền, xa lánh chốn Tòng Lâm vì mãi lo việc đất Man rối rắm. Từ khi đổi huyện thành đồn, cảnh chùa Bình Man trở nên hoang phế chưa có điều kiện tu bổ. Thật chi xiết ngậm ngùi!
Nay, trời cho nhàn hạ, vui thú cùng hoa lá cỏ cây, dạo bước đây đó ngắm Thạch Động trên núi Phú Thọ. Thật là một kỳ tích mà trời ban tặng: đỉnh núi nhô cao, sông Trà chảy quanh co giáp Sông Vệ; phía bắc là ngọn Quy Sơn, phía nam là dãy núi Long Phụng. Trước mặt là miền Cổ luỹ gần kề bến nước, đảo Lý Sơn trấn giữ lối vào ra. Ban ngày thuyền khách ngược xuôi thênh thang lướt sóng, đêm đến đèn câu ẩn hiện sao sáng ngang trời, cảnh đẹp thanh kỳ nói sao cho hết! Phóng tầm mắt nhìn mênh mông vũ trụ, tỉ mĩ xét xem mọi vật bộn bề thì trong thập cảnh xứ ta đây là nơi đẹp nhất vậy. Bèn lệnh cho xây dựng chùa tên Thạch Sơn rồi rước tượng Phật nơi chùa Bình Man về đây thờ cúng.
Dựa theo chí người xưa, yêu cảnh đẹp, gởi lòng lúc thư nhàn, bồi dưỡng tánh trời ban. Vì thế mà tôn tạo ngôi bữu toạ được vang danh, bền lòng kính Phật, rạng rỡ sen vàng, cởi bỏ lo toan, vun bồi gốc thiện, vo tròn quả phúc, ngõ hầu theo khuôn phép động tĩnh của trời đất để hoàn thiện con người, không giẫm bừa lên cổ tục mà ngụ ý của người xưa đối với hôm nay là ngẫu nhiên trùng hợp vậy.

……………………..

Ngày lành mùa đông năm Thành Thái 18- Bính Ngọ (1906)

Người soạn: Phụ Chánh Đại Thần Cần chánh Điện đại học sỹ Túc liệt tướng, Diên Lộc quận công, Trí Chánh Thạch Trì Nguyễn Thân tự Nho Bá             

    Sau khi xây dựng hoàn tất chùa Thạch Sơn, Hòa Thượng Hoằng Tịnh được cung thỉnh về trụ trì. Chính tại nơi đây, Hòa thượng Khánh Tín đã được thế độ xuất gia vào ngày 17 tháng 11 năm Tân Hợi (1911). Năm Quý Sửu (1913), Ngũ tổ chùa Thiên Ấn là Hòa thượng Hoằng Phúc được phong Tăng Cang và cung thỉnh kiêm trụ trì chùa Thạch Sơn thay cho pháp huynh là Hòa thượng Hoằng Tịnh đang bận Phật sự tại hai chùa Phước Quang và Khánh Long.
Năm Bính Thìn (1916), Hòa thượng Hoằng Phúc viên tịch, pháp đệ của Ngài là Hòa thượng Hoằng Thạc được cung thỉnh về trú trì chùa Sắc tứ Thạch Sơn. Đến năm 1940, Hòa thượng Hoằng Thạc về tại quê nhà tại Nghĩa Hành khai sơn chùa Phổ Quang và giao lại cho đệ tử mình là Hòa thượng Trí Hưng điều hành Phật sự tại đây. Trong suốt 24 năm trụ trì chùa Thạch Sơn, Hòa thượng Hoằng Thạc đã hai lần khai đàn thí giới để đào tạo Tăng tài cho quê hương. Đó là giới đàn năm Giáp Tuất (1934) và giới đàn năm Đinh Sửu (1937). Giới đàn năm Giáp Tuất là giới đàn được tổ chức qui mô do Hòa thượng Hoằng Thạc làm Đàn  đầu, Tăng cang Huệ Minh chùa Từ Hiếu, Huế làm Yết ma và Tăng cang Thiện Quả chùa Chúc Thánh, Quảng Nam  làm Giáo thọ. Thiền sư Trí Độ và Thiền sư Mật khế về dự với tư cách là phóng viên nguyệt san Viên Âm. Đặc biệt, năm 1921, tú tài Nguyễn Trọng Khải nghe danh Ngài nên từ Bình Định lặn lội ra tầm sư học đạo, về sau trở thành Hòa thượng Thích Trí Hải, chủ bút tạp chí Từ Bi Âm của hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật học.
Năm Tân Tỵ (1941), tại chùa Thạch Sơn lại khai đàn truyền giới do Hòa thượng Diệu Nguyên làm Đàn đầu. Đây cũng là giới đàn cuối cùng tại ngôi chùa lịch sử này.
Đến những năm 1944, 1945 kháng chiến chống Pháp bùng nổ, chùa Thạch Sơn rơi vào hoang tàn. Hòa thượng Trí Hưng về lập chùa Từ Lâm dưới chân núi Phú Thọ để tiếp tục duy trì hành đạo.
Từ khi thành lập cho đến lúc suy tàn, chỉ vọn vẹn 4 thập niên (1906-1945) nhưng chùa Sắc tứ Thạch Sơn đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển của Phật giáo Quảng Ngãi nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. Nhiều giới đàn mang tầm vóc quy mô được tổ chức để tiếp dẫn hậu lai truyền trì mạng mạch. Các vị danh Tăng như: Hòa thượng Thích Trí Hải, chủ bút Từ Bi Âm, khai sơn chùa Bích Liên, Bình Định; Hòa thượng Thích Trí Hưng, khai sơn chùa Từ Lâm, Quảng Ngãi; Hòa thượng Thích Trí Huy, chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Đức, khai sơn chùa Pháp Hoa, Đăcknông, Hòa thượng Thích Khánh Tín, chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Ngãi, khai sơn chùa Thọ Sơn, Quảng Ngãi v.v…đều xuất thân từ ngôi chùa Thạch Sơn lịch sử này.
Ngày nay (2010), về lại Thạch Sơn, cổng Tam quan rêu phong bởi lớp bụi thời gian nhưng vẫn uy nghi sừng sững trơ gan cùng tuế nguyệt. Hai tấm bia ký tả hửu: Bình Man Tự Ký và Thạch Sơn Tư Ký với hàng nghìn chữ Hán tinh xảo vẫn đẹp, vẫn y nguyên như thuở ban sơ. Đứng trên nền phế tích Thạch Sơn tự, nhìn biển cả mênh mông, mờ xa thấp thoáng đảo Lý Sơn, bên trái là dòng sông Trà Khúc lững lờ xuôi về biển, bên phải là sông Trại Đàn-chi lưu của sông Vệ và sông Bàu Giang dẫn nước về giao tình với sông Trà ở của Đại đã phân đôi bờ miền Phú Thọ để có danh thắng Cổ Lũy Cô Thôn mà thấy lòng bùi ngùi thương tiếc Thạch Sơn Tự và Bình Man Tự. Nghe văng vẳng đâu đây lời kinh tiếng kệ trầm hùng của thuở nào còn vang vọng. Biết đến bao giờ Thạch Sơn được trùng quang?

 

                                                        Đức Thắng, mùa đông năm Canh Dần 2010
LVB

 

 

Phế tích chùa Sắc tứ Thạch Sơn

 

“Thạch Sơn Tự Tam Quan” vẫn còn đậm nét

 

 

 

Uy nghi sững sững cổng Tam quan Thạch Sơn Tự

Chùa Hang trong quần thể Thạch Sơn Tự khi xưa

Bình phong trước Chánh điện Thạch Sơn Tự

Toàn cảnh phế tích Sắc tứ Thạch Sơn Tự

Bia ký Thạch Sơn Tự

Bia ký Bình Man Tự

Trơ gan cùng tuế nguyệt

Cổ tháp dưới chân núi Phú Thọ

Giới điệp Tỳ Kheo của giới đàn Thạch Sơn năm Giáp Tuất (1934)

Do Hòa thượng Ấn Lãnh-Tổ Tòng-Hoằng Thạc làm Đàn đầu.

 

 

Ảnh tư liệu: Thích Như Tịnh

 

 Chú thích:

(*) Theo lý lịch di tích trong” Dự án nghiên cứu Trường LũyQuảng Ngãi” của viện Viễn Đông Bác Cổ      trang 16.

 

 

 

 

( Theo LamTeChucThanh.Com.Vn )